Cây giống chuối
Cung cấp cây giống chuối trăm nải, chuối xiêm, các loại chuối khác 0988868620
Thứ Hai, 12 tháng 1, 2015
Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014
Giống keo lá tràm , tràm bông vàng giao hàng cả nước
Giống keo lá tràm , tràm bông vàng giao hàng cả nước
0988868620
Cây giống keo lá tràm
- Tên phổ quát : Keo lá tràm , tràm bông vàng , keo lưỡi liềm
- Tên khoa học : Acacia auriculiformis
- Họ thực vật : Đậu – fabaceae
- nguồn gốc xuất xứ :
- Phân bổ ở Việt Nam : Rộng khắp
v đặc điểm hình thái:
- Thân , tán , lá: Cây gỗ lớn , cao 25-30m , đường kính 60-80 cm. Phân cành thấp , tán rộng. Thân hình tròn , thẳng.Vỏ cây màu xám đen , nứt dọc , nhỏ , sâu 2-3 mm. Lá đơn tử , mọc cách , hình lưỡi hái , màu xanh lục , nhẵn bóng , đầu và gốc lá nhọn , có 6-8 gân hình cung song song.
- Hoa , quả , hạt: Hoa lưỡng tính mọc cụm hình bông đuôi sóc , ở kẽ lá , hoa màu vàng. Quả dẹt , mỏng dài 7-8 cm. Hạt màu đen , có rốn hạt khá dài màu vàng như màu của tràng hoa.
-
- Cây tràm có hoa màu vàng
v đặc điểm sinh lí , sinh thái:
- Tốc độ sinh trưởng: nhanh
- ăn nhập với: cây ưa sáng , khí hậu nóng , khả năng chịu hạn tốt , chịu rét kém. Nhiệt độ làng nhàng 24 0 C. Đất có độ dày làng nhàng , khả năng thoát nước tốt , độ pH gần trung tính , hơi chua.
- Cây thường được dùng nhiều trong cải tạo đất làm ra lâm nghiệp , trồng phủ xanh đất trống đồi trọc và cho vật liệu bột giấy. Tràm bông vàng cũng được trồng như là cây cảnh , cây lấy bóng mát và trồng trong các đồn điền để lấy gỗ. Gỗ của nó có khả năng dùng trong làm ra giấy , đồ gỗ gia dụng và các công cụ.
Cây keo lá tràm có tên khoa học là Acacia auriculiformis A. Cunn. Ex Benth. Địa ngục ta còn gọi cây keo lá trà m là cây tràm bông vàng vì lá của nó giống lá tràm và có hoa màu vàng.
Keo lá tràm có khả năng trồng được trên những vùng có hoàn cảnh đất cát và khí hậu khắc nghiệt. Sau 5- 6 năm trồng , có khả năng khai khẩn cây dùng làm vật liệu giấy. Với thời kì trồng lâu hơn cây có khả năng cho gỗ lớn làm vật liệu xây dựng , đồ mộc gia dụng , trang hoàng nội thất , đồ mỹ nghệ cao cấp.
Thường người ta gieo hạt và tạo cây con trước thời vụ trồng khoảng 2 , 5 – 3 tháng. Hạt keo lá tràm được ủ cho “nứt nanh” sau thời gian ấy gieo vào bầu. Vỏ bầu là túi nilông có kích tấc 9 x 12 cm , có đáy hoặc không đáy. Ví như có đấy phải cắt 2 góc dưới hoặc đục 6 – 8 lỗ nhỏ chung quanh để thoát nước. Thành phần nông dân hỗn hợp trong bầu: nơi đất khô cằn nghèo dinh dưỡng có khả năng tạo hỗn hợp gồm 80% đất tầng mặt + 20% phân chuồng hoai. Nơi đất có hàm lượng mùn cao có khả năng dùng 90% đất tầng mặt + 8 - 9% phân chuồng hoai + 1 – 2% Supe lân.
Làm đất:
có khả năng làm đất tất cả hoặc làm đất cục bộ bằng phương thức cày chảo , sau thời gian ấy dùng cày ngầm để cày rạch hàng sâu 40 cm , trên các rạch cày ngầm cuốc hố thường thấy kích tấc 30 x 30 x 30 cm.
Lấp hố và bón lót:
Trồng theo phương thức quảng canh cho việc lấp hố phải được hoàn thành trước khi trồng 7 – 10 ngày. Đối với rừng trồng thâm canh , phân bón lót cốt yếu là vô cơ và phân vi sinh. Vì vậy việc bón lót phải được tiến hành đồng thời với việc lấp hố. Sau thời gian ấy phải trồng ngay để tránh việc phân bị rửa trôi. Tùy theo loại đất và hoàn cảnh ở từng vùng có xác xuất bón các loại phân và lượng phân khác nhau. Thường bón phân khoảng 100 – 150 g NPK/hố. Với đất có độ pH nhỏ hơn 4 , 5 nên bón thêm vôi bột. Ví như dùng phân chuồng có xác xuất bón 0 , 5 – 2 kg/hố , dùng phân xanh có xác xuất bón 3 – 5 kg/hố. Khi trồng phải bón phân trong hố cho thật đều.
Mật độ trồng:
Tùy theo mục đích trồng và hoàn cảnh thâm canh mà lựa chọn mật độ trồng cho phù hợp. Trồng thâm canh cung cấp gỗ vật liệu giấy thường mật độ từ 1.600 – 2.000 cây/ha , nhưng phù hợp nhất là mật độ 1.660 cây/ha , cự ly 3 x 2 m ( hàng cách hàng 3 m , cây cách cây 2 m ).
Thời vụ trồng rừng:
Vùng miền Đông nam bộ châu phi thường trồng vào tháng 5 – 6. Tùy theo hoàn cảnh khí hậu từng nơi và sự thay đổi thời tiết từng năm mà chọn thời khắc trồng vào giai đoạn đầu mùa mưa.
Trồng rừng:
Khi thời tiết bắt đầu có mưa và mưa đã ẩm đất , chọn những ngày râm mát hoặc có mưa nhỏ để trồng cây. Trước khi đặt cây vào hố phải đập tơi đất trong hố , đảo đều phân bón lót và lấp đất thêm cho đầy hố. Cuốc một lỗ sâu khoảng 10 – 15 cm giữa hố , dùng dao rạch và tháo bỏ bầu trước khi trồng. Đặt cây thẳng đứng vào hố sao cho mặt trên của bầu đất thấp hơn miệng hố 1 – 2 cm , dùng tay lấp đất bột và ấn chặt chung quanh bầu. Dùng cuốc vun đất chung quanh đầy vào gốc cây.
chăm sóc và quản lý bảo vệ rừng:
Chăm sóc: cây non mới trồng còn yếu ớt chưa quen với môi trường mới , một số cây có xác xuất bị chết nên sau khi trồng 3 – 4 tuần phải tiến hành chăm sóc lần 1 , cốt yếu là vun gốc và trồng dặm. Cây con trồng dặm phải là cây trồng chính được dự trữ ở vườn ươm , không có một sự hạn chế hay một trường hợp ngoại lệ nào cả khoẻ mạnh , không bị cụt ngọn và không bị sâu bệnh , sức sinh trưởng tốt. Cũng cần thay thế ngay những cây chưa chết nhưng có sức sinh trưởng kém. Chăm sóc lần 2 được thực hành vào giữa mùa mưa , vì lúc này cỏ dại có xác xuất sinh trưởng rất nhanh lấn lướt cây trồng. Lần 3 được thực hành vào đầu mùa khô nhằm loại trừ cỏ dại , cây leo và cây bụi lấn chiếm , nghề nghiệp này còn có ý nghĩa phòng ngừa cháy. Đồng thời tiến hành tỉa nhánh để ngăn lại trong một giới hạn nhất định thiết diện thoát hơi nước qua bề mặt lá trong mùa khô.
Năm thứ hai cũng chăm sóc ba lần: lần 1 vào đầu mùa mưa , lần 2 vào giữa mùa mưa và lần 3 vào đầu mùa khô. Lần 1 cốt yếu là phát dọn thực bì , dọn cỏ , xáo xới và vun gốc. Loại phân dùng để bón thúc là phân vô cơ và phân vi sinh. Thời kì bón thúc vào đầu mùa mưa. Lượng phân bón thúc như bón lót. Cách bón: rắc đều phân chung quanh gốc cây , cách gốc cây một khoảng đúng bằng bán kính của tán cây , sau thời gian ấy xáo xới cho phân trộn lẫn trong lớp đất mặt. Ở những nơi địa hình cho phép có xác xuất dùng cày chảo để cày chăm sóc giữa hai hàng cây. Lần thứ hai và lần thứ ba chăm sóc na ná như năm thứ nhất.
Năm thứ ba: chăm sóc 2 lần: lần 1 vào đầu mùa mưa , lần 2 vào đầu mùa khô. Chăm sóc lần 1 na ná như lần 1 năm thứ 2 , nếu có hoàn cảnh lượng phân bón thúc có xác xuất tăng từ 1 , 2 – 1 , 5 lần so với khi bón lót. Lần hai cũng chăm sóc na ná như lần 3 của năm thứ hai.
Năm thứ tư: chỉ chăm sóc một lần vào cuối mùa mưa hoặc đầu mùa khô. Nghề nghiệp cốt yếu là phát dọn thực bì , cây leo , cây bụi áp bức , trỉa cành nhánh , xáo xới quanh gốc cây theo hình chiếu của tán cây , phòng ngừa cháy rừng....
Keo lá tràm có khả năng trồng được trên những vùng có hoàn cảnh đất cát và khí hậu khắc nghiệt. Sau 5- 6 năm trồng , có khả năng khai khẩn cây dùng làm vật liệu giấy. Với thời kì trồng lâu hơn cây có khả năng cho gỗ lớn làm vật liệu xây dựng , đồ mộc gia dụng , trang hoàng nội thất , đồ mỹ nghệ cao cấp.
Thường người ta gieo hạt và tạo cây con trước thời vụ trồng khoảng 2 , 5 – 3 tháng. Hạt keo lá tràm được ủ cho “nứt nanh” sau thời gian ấy gieo vào bầu. Vỏ bầu là túi nilông có kích tấc 9 x 12 cm , có đáy hoặc không đáy. Ví như có đấy phải cắt 2 góc dưới hoặc đục 6 – 8 lỗ nhỏ chung quanh để thoát nước. Thành phần nông dân hỗn hợp trong bầu: nơi đất khô cằn nghèo dinh dưỡng có khả năng tạo hỗn hợp gồm 80% đất tầng mặt + 20% phân chuồng hoai. Nơi đất có hàm lượng mùn cao có khả năng dùng 90% đất tầng mặt + 8 - 9% phân chuồng hoai + 1 – 2% Supe lân.
Làm đất:
có khả năng làm đất tất cả hoặc làm đất cục bộ bằng phương thức cày chảo , sau thời gian ấy dùng cày ngầm để cày rạch hàng sâu 40 cm , trên các rạch cày ngầm cuốc hố thường thấy kích tấc 30 x 30 x 30 cm.
Lấp hố và bón lót:
Trồng theo phương thức quảng canh cho việc lấp hố phải được hoàn thành trước khi trồng 7 – 10 ngày. Đối với rừng trồng thâm canh , phân bón lót cốt yếu là vô cơ và phân vi sinh. Vì vậy việc bón lót phải được tiến hành đồng thời với việc lấp hố. Sau thời gian ấy phải trồng ngay để tránh việc phân bị rửa trôi. Tùy theo loại đất và hoàn cảnh ở từng vùng có xác xuất bón các loại phân và lượng phân khác nhau. Thường bón phân khoảng 100 – 150 g NPK/hố. Với đất có độ pH nhỏ hơn 4 , 5 nên bón thêm vôi bột. Ví như dùng phân chuồng có xác xuất bón 0 , 5 – 2 kg/hố , dùng phân xanh có xác xuất bón 3 – 5 kg/hố. Khi trồng phải bón phân trong hố cho thật đều.
Mật độ trồng:
Tùy theo mục đích trồng và hoàn cảnh thâm canh mà lựa chọn mật độ trồng cho phù hợp. Trồng thâm canh cung cấp gỗ vật liệu giấy thường mật độ từ 1.600 – 2.000 cây/ha , nhưng phù hợp nhất là mật độ 1.660 cây/ha , cự ly 3 x 2 m ( hàng cách hàng 3 m , cây cách cây 2 m ).
Thời vụ trồng rừng:
Vùng miền Đông nam bộ châu phi thường trồng vào tháng 5 – 6. Tùy theo hoàn cảnh khí hậu từng nơi và sự thay đổi thời tiết từng năm mà chọn thời khắc trồng vào giai đoạn đầu mùa mưa.
Trồng rừng:
Khi thời tiết bắt đầu có mưa và mưa đã ẩm đất , chọn những ngày râm mát hoặc có mưa nhỏ để trồng cây. Trước khi đặt cây vào hố phải đập tơi đất trong hố , đảo đều phân bón lót và lấp đất thêm cho đầy hố. Cuốc một lỗ sâu khoảng 10 – 15 cm giữa hố , dùng dao rạch và tháo bỏ bầu trước khi trồng. Đặt cây thẳng đứng vào hố sao cho mặt trên của bầu đất thấp hơn miệng hố 1 – 2 cm , dùng tay lấp đất bột và ấn chặt chung quanh bầu. Dùng cuốc vun đất chung quanh đầy vào gốc cây.
chăm sóc và quản lý bảo vệ rừng:
Chăm sóc: cây non mới trồng còn yếu ớt chưa quen với môi trường mới , một số cây có xác xuất bị chết nên sau khi trồng 3 – 4 tuần phải tiến hành chăm sóc lần 1 , cốt yếu là vun gốc và trồng dặm. Cây con trồng dặm phải là cây trồng chính được dự trữ ở vườn ươm , không có một sự hạn chế hay một trường hợp ngoại lệ nào cả khoẻ mạnh , không bị cụt ngọn và không bị sâu bệnh , sức sinh trưởng tốt. Cũng cần thay thế ngay những cây chưa chết nhưng có sức sinh trưởng kém. Chăm sóc lần 2 được thực hành vào giữa mùa mưa , vì lúc này cỏ dại có xác xuất sinh trưởng rất nhanh lấn lướt cây trồng. Lần 3 được thực hành vào đầu mùa khô nhằm loại trừ cỏ dại , cây leo và cây bụi lấn chiếm , nghề nghiệp này còn có ý nghĩa phòng ngừa cháy. Đồng thời tiến hành tỉa nhánh để ngăn lại trong một giới hạn nhất định thiết diện thoát hơi nước qua bề mặt lá trong mùa khô.
Năm thứ hai cũng chăm sóc ba lần: lần 1 vào đầu mùa mưa , lần 2 vào giữa mùa mưa và lần 3 vào đầu mùa khô. Lần 1 cốt yếu là phát dọn thực bì , dọn cỏ , xáo xới và vun gốc. Loại phân dùng để bón thúc là phân vô cơ và phân vi sinh. Thời kì bón thúc vào đầu mùa mưa. Lượng phân bón thúc như bón lót. Cách bón: rắc đều phân chung quanh gốc cây , cách gốc cây một khoảng đúng bằng bán kính của tán cây , sau thời gian ấy xáo xới cho phân trộn lẫn trong lớp đất mặt. Ở những nơi địa hình cho phép có xác xuất dùng cày chảo để cày chăm sóc giữa hai hàng cây. Lần thứ hai và lần thứ ba chăm sóc na ná như năm thứ nhất.
Năm thứ ba: chăm sóc 2 lần: lần 1 vào đầu mùa mưa , lần 2 vào đầu mùa khô. Chăm sóc lần 1 na ná như lần 1 năm thứ 2 , nếu có hoàn cảnh lượng phân bón thúc có xác xuất tăng từ 1 , 2 – 1 , 5 lần so với khi bón lót. Lần hai cũng chăm sóc na ná như lần 3 của năm thứ hai.
Năm thứ tư: chỉ chăm sóc một lần vào cuối mùa mưa hoặc đầu mùa khô. Nghề nghiệp cốt yếu là phát dọn thực bì , cây leo , cây bụi áp bức , trỉa cành nhánh , xáo xới quanh gốc cây theo hình chiếu của tán cây , phòng ngừa cháy rừng....
Cây giống keo lá tràm tại vườn ươm
Tác giả: KS. Lê Dự.
Giống keo lá tràm , tràm bông vàng giao hàng cả nước
Thế Giới Cây Giống. since 1993
-- 20 năm tuyển chọ giống cây trồng --
chức vị : Ấp 14 , xã Long Trung , huyện Cai Lậy , tỉnh Tiền Giang
0906194819 Hòa ( đảm trách toàn quốc )
Chi nhánh Miền Đông : Ấp 3 , xã Trừ Văn Thố , huyện Bến Cát , tỉnh Bình Dương
0988868620 Nhẫn ( đảm trách Đông nam bộ châu phi )
Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014
Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013
Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây có múi cam , quýt , bưởi
cam : Citrus Sinensis (L) Osbeck; Quýt : Citrus reticulata.Blanco; Yêu cầu sinh thái: - Nhiệt độ: Cam quýt có thể song và phát triển ở 13°c-39ºc, thích hợp nhất từ 23-29ºc, ngừng sinh trưởng dưới 13ºc và chết -5ºc. Nhiệt độ ảnh hưởng đến phẩm chất và phát triển của trái. Ở ĐBSCL do có nhiệt độ cao và ẩm độ thấp nên trái thường chín sớm, vị ngọt, nhưng vỏ có màu sắc không đẹp.
-Ánh sáng: Cam quýt không thích ánh sàng trực tiếp và cường độ ánh sáng thích hợp là 10000-15000 lux (tương đương ánh sáng lúc 8 giờ sáng hoặc 4-5 giờ chiều ở Việt Nam).
-Vũ lượng: Cam quýt cần khoảng 1000-2000mm/năm và phân bố đều trong năm.
-Đất đai: Đất trồng cam quýt phải có tầng canh tác dày 0,5-1m. Đất thịt pha, thông thoáng,thoát nước tốt, màu mỡ, độ pH từ 5-7 là thích hợp cho cam quýt.
Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013
18 loại cây ăn trái cổ thụ làm cảnh thích hợp cho nhà vườn
. Cây bòn bon
Bòn bon gọi theo phương ngữ Nam hay Dâu da đất gọi theo phương ngữ Bắc, có tên khoa khoa học là Lansium domesticu.
Là loài cây thân gỗ. Hoa bòn bon có màu vàng nhạt mọc thành chùm hay dây. Trái có hình tròn vỏ dẻo, cơm bòn bon màu trắng đục, có khi gần như trong suốt, chia thành 5-6 múi. Vị bòn bon hơi chua, khi chín thì ngọt hơn. Bòn bon chín vào mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10.
Ưu điểm của cây bòn bon: + Tạo bóng mát, tán tròn đẹp
+ Dễ trồng và chăm sóc
Mãng cầu Thái giống mới có nhiều ưu điểm và tự thụ phấn
Ngoài yếu tố cho trái quanh năm làm tăng năng suất, việc trồng ghép mãng cầu xiêm trên gốc cây bình bác cũng là yếu tố quan trọng quyết định tuổi thọ, sức sinh trưởng và năng suất của cây. Được biết, cây mãn cầu gốc ghép như thế này sức chịu đựng khô hạn, ngập úng hay phèn mặn đều rất tốt. Chính vì vậy chúng đã dần thay thế những cây trồng trước đó vốn không chịu nỗi sự khắt nghiệt của vùng đất cù lao ven biển này.
Vườn nguyệt quế cổ thụ lớn nhất miền nam
ghe tiếng về một vườn nguyệt quế cổ thụ bên bờ bắc sông tiền đã lâu , nhưng vẫn nghĩ rằng đâu là vùng dân cư đông đúc sao lại có rừng nguyệt quế quý hiếm như thế . Thẳng tiến 120km từ TP HCM đến Ấp 14- xã Long Trung - Cai Lậy -Tiền Giang để được tận mắt loại cây mà các nghệ nhân cây cảnh thường mong ước
Ngỡ như rừng nguyệt quế nào là dây leo chằng chịt , nào là cỏ rác um tùm , nhưng không , đây chỉ là vườn nguyệt quế nhân tạo được người ta trồng từ mấy chục năm trước . Có lẽ người ta gọi là rừng cho có vẻ hoành tráng như vườn cao su , vườn tràm thành rừng cao su , rừng tràm như thường thấy.
cây nguyệt quế cành bay ngang
Ngỡ như rừng nguyệt quế nào là dây leo chằng chịt , nào là cỏ rác um tùm , nhưng không , đây chỉ là vườn nguyệt quế nhân tạo được người ta trồng từ mấy chục năm trước . Có lẽ người ta gọi là rừng cho có vẻ hoành tráng như vườn cao su , vườn tràm thành rừng cao su , rừng tràm như thường thấy.
cây nguyệt quế cành bay ngang
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)